1. Về kinh tế.
1.1 Sản xuất công nghiệp &TTCN:
Giá trị sản xuất công nghiệp quí I thực hiện 2.540 tỷ đồng (giá cố định), tăng 20,2% so cùng kỳ năm 2010, bằng 20% kế hoạch năm.
Các doanh nghiệp Trung ương quản lý thực hiện trên 192 tỷ đồng, tăng gần 02%. Tăng chủ yếu là ở thủy điện trên 28%, khai thác than trên 20%.
Khu vực kinh tế ngoài nhà nước quí I thực hiện trên 1.630 tỷ đồng, chiếm 64% trong giá trị sản xuất công nghiệp, tăng trên 25% so với cùng kỳ. Một các địa phương có giá trị sản xuất tăng cao so với cùng kỳ như: Núi Thành tăng trên 97%, Đại Lộc tăng hơn 16%, Điện Bàn tăng trên 11,5%.
Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài những năm qua đang dần chiếm tỷ trọng cao, quí I năm 2011 thực hiện gần 640 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 15% giá trị sản xuất trong toàn ngành.
Tình hình sản xuất công nghiệp quí I năm 2011 mặc dù tăng trưởng khá nhưng có dấu hiệu chững lại và thấp hơn tốc độ tăng của chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho cả năm 2011 (24%). Nguyên nhân chủ yếu là do nghỉ Tết Nguyên đán Tân Mão kéo dài; ảnh hưởng tác động của việc điều chỉnh giá các yếu tố đầu vào như xăng, dầu, điện, dẫn đến chi phí sản xuất tăng, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, việc tăng lãi suất ngân hàng, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận vốn vay cũng ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và kinh doanh.
1.2. Thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tháng 3/2011 thực hiện 1.470 tỷ đồng, tăng gần 2,5% so với tháng 2/2011 (đã loại trừ yếu tố tăng giá 0,66%). Tính chung 3 tháng đầu năm tổng mức bán lẻ thực hiện trên 4.350 tỷ đồng, tăng 25,8% so với cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 15,1%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 tăng 1,82% so với tháng 2. Bình quân chỉ số giá tiêu dùng quí I/2011 tăng 10,73% so với quí I/2010. Trong đó các nhóm tăng cao như: Lương thực tăng trên 14%; thực phẩm tăng trên 17%; nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng trên 13%. Giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, chỉ số giá vàng tháng 3 tăng hơn 5% so với tháng trước và tăng 41% so với cùng kỳ. Giá đô la tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 12,3% so với cùng kỳ.
Trong quý I, tổng lượt khách tham quan lưu trú trên 721.000 lượt, tăng hơn 7,3% so với cùng kỳ; trong đó khách lưu trú trên 210.000 lượt, tăng 4,7%. Doanh thu khách sạn, nhà hàng trên 880 tỷ đồng, tăng 26%; du lịch lữ hành 18 tỷ đồng, giảm 11%.
Khối lượng hàng hóa thông qua cảng trong 3 tháng trên 176 nghìn tấn, giảm gần 10% so với cùng kỳ, doanh thu qua cảng tăng trên 25%.
Giá trị xuất khẩu quí I thực hiện trên 60 triệu USD, bằng 19,2% kế hoạch năm và tăng hơn 19% so với quí I năm 2010.
Một số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh đều giảm như vàng 7,4 triệu USD, giảm 13%; nguyên liệu giấy 4,4 triệu USD, giảm gần 18%; sản phẩm gỗ 6,2 triệu USD, giảm hơn 8%; hàng giầy da 7,6 triệu USD, giảm 20%. Riêng hàng thủy sản 5,4 tiệu USD, tăng 65%, dệt may 14,4 triệu USD, tăng gần 4%.
Nhập khẩu quí I thực hiện hơn 108 triệu USD, tăng trên 4,5% so với quí I năm 2010. Trong đó các doanh nghiệp ở Khu kinh tế mở Chu Lai nhập khẩu trên 63 triêu USD, giảm gần 6% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp tại Khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc nhập khẩu 29 triệu USD, tăng 34%.
1.3. Về sản xuất nông nghiệp.
Toàn tỉnh đã gieo trồng gần 84.700 ha, bằng gần 100% so với cùng vụ năm trước. Trong đó đã gieo cấy 42.780 ha lúa Đông Xuân, bằng hơn 103% kế hoạch, tăng hơn 500 ha so với vụ Đông Xuân năm trước, diện tích tăng chủ yếu tập trung ở các huyện Đại Lộc, Thăng Bình, Duy Xuyên. Do thời tiết rét lạnh kéo dài, diện tích lúa nước trời trổ bị đơ bông và đen hạt. Bệnh lùn sọc đen, rầy nâu, rầy lưng trắng, chuột đã gây hại lúa ở hầu hết các địa phương.
Dịch lở mồm long móng đã xẩy ra ở hầu hết các địa phương trong tỉnh. Ngày 09/3/2011, UBND tỉnh quyết định công bố dịch, đồng thời nghiêm cấm các hoạt động mua bán, giết mổ, vận chuyển gia súc và sản phẩm gia súc trên phạm vi toàn tỉnh. Tổng số gia súc mắc bệnh chết và tiêu hủy hơn 1.100 con và gần 500 con đang mắc bệnh. Các địa phương phối hợp với ngành chức năng triển khai các biện pháp chống dịch khẩn cấp, sử dụng hóa chất tiêu độc, khử trùng và tiêm phòng hơn 72.000 liều vắc xin về lở mồm long móng.
Sản lượng khai thác thủy sản quí I thực hiện 10.800 tấn, bằng hơn 19% kế hoạch năm, giảm gần 02% so với cùng kỳ năm 2010.
Diện tích thả nuôi tôm trên 300 ha, bằng 17,6% kế hoạch. Hầu hết diện tích thả nuôi đều chấp hành đúng lịch thời vụ, một số diện tích khác tiếp tục được thả nuôi đến hết tháng 4/2011.
Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng tính chung 3 tháng thực hiện 44.000 m3, bằng 22% kế hoạch, tăng gần 5% so với cùng kỳ. Giá gỗ rừng trồng khoảng 850.000 đồng/tấn, tăng bình quân 10%, đã khuyến khích được người dân đầu tư trồng rừng.
2. Tài chính, tiền tệ và thu chi ngân sách:
Đối với thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt: Thúc đẩy triển khai các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; huy động vốn tăng 20-22%, dư nợ tín dụng tăng 20% so với cuối năm 2010; tỷ trọng dư nợ đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chiếm 25% trong tổng dư nợ. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, đảm bảo vừa kiểm soát tăng trưởng dư nợ vừa nâng cao chất lượng tín dụng và tập trung vốn phục vụ sản xuất, nhất là cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, theo qui định của ngân hàng Nhà nước.
Đối với tín dụng thương mại, đến 31/3/2011, tổng nguồn vốn huy động tại chỗ của các ngân hàng trên địa bàn 9.920 tỷ đồng, tăng 8,6% so với đầu năm và tăng gần 40% so với cùng kỳ.
Tổng dư nợ cho vay 17.760 tỷ đồng, tăng 10,8% so với đầu năm và tăng gần 37% so với cùng kỳ. Dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên 2.600 tỷ đồng, chiếm trên 15% tổng dư nợ.
Tình hình nợ xấu trên địa bàn trong Quý I/2011 là 110 tỷ đồng, chiếm 0,6% trên tổng dư nợ toàn địa bàn, giảm 6% so với đầu năm.
Theo ngân hàng nhà nước Chi nhánh Quảng Nam, lãi suất huy động trên địa bàn trong tháng 3 ở mức phổ biến đối với không kỳ hạn là 3% và đối với có kỳ hạn 14%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn ở mức thấp nhất là 14%, mức cao nhất 23%, mức phổ biến là 18,5%. Lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức thấp nhất là 16%, mức cao nhất là 23%, mức phổ biến là 18%.
Về tài chính và thu chỉ ngân sách: Thực hiện rà soát, sắp xếp lại nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 09 tháng còn lại trong năm 2011 với tổng số tiền hơn 47 tỷ đồng. Phấn đấu giảm 10% so với năm 2010 các khoản chi tiếp khách, hội nghị, xăng dầu, văn phòng phẩm. Phấn đấu tăng thu thêm 5% nguồn thu nội địa so với chỉ tiêu Nghị quyết HĐND tỉnh đã giao đầu năm.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quý I/2011 ước thực hiện 1.319 tỷ đồng, bằng gần 30,5% so với dự toán năm. Trong đó, thu nội địa 839 tỷ đồng, bằng gần 29 %; thu xuất nhập khẩu 470 tỷ đồng, bằng 43,5% dự toán năm.
Tổng chi ngân sách địa phương quý I/2011 ước thực hiện 1.862 tỷ đồng, bằng gần 29% so với dự toán năm. Trong đó, chi đầu tư phát triển 977 tỷ đồng, bằng 56%; chi thường xuyên 856 tỷ đồng, bằng 21%.
3. Về đầu tư và xây dựng:
Ngay từ đầu năm, các ngành, địa phương đã triển khai giao chỉ tiêu và thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2011 theo Quyết định 4141/QĐ-UBND ngày 10/12/2010 của UBND tỉnh về giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán thu, chi ngân sách nhà nước năm 2011.
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển năm 2011 của tỉnh được Trung ương giao hơn 2.208 tỷ đồng. Trong đó nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương 634,9 tỷ đồng ( ngân sách tập trung: 334,9 tỷ đồng, khai thác quĩ đất: 300 tỷ đồng); nguồn vốn hỗ trợ theo mục tiêu 643,6 tỷ đồng; vốn nước ngoài 130 tỷ đồng; nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ 720,64 tỷ đồng; nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia 272,145 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn đầu tư phát triển là 79,8 tỷ đồng.
So với Trung ương giao, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của tỉnh đã giao trong năm 2011 tăng thêm 370 tỷ đồng gồm 270 tỷ từ khai thác quĩ đất, 30 tỷ từ nguồn xổ số kiến thiết và 70 tỷ đồng nguồn vượt thu.
Qua rà soát, các công trình để giãn tiến độ, điều chuyển nguồn vốn theo tinh thần Nghị Quyết 11 của Chính phủ, tập trung vốn các công trình trọng điểm, bức xúc; bố trí vốn cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư; các công trình thanh toán khối lượng, công trình hoàn thành trong năm 2011; các công trình mới bức xúc hoàn thành hoặc có hạng mục hoàn thành trong năm 2011. Đối với 34 công trình mới thuộc khối tỉnh quản lý, Sở Kế hoạch và Đầu tư đề nghị 15 công trình cho thực hiện và 19 công trình tạm dừng thực hiện trong năm 2011. Trong 15 công trình đề nghị cho thực hiện có tổng mức đầu tư 241 tỷ đồng, đã bố trí kế hoạch năm 2011 là 47,3 tỷ đồng, chủ yếu là thực hiện đền bù giải tỏa và xây dựng trường lớp học, các khu tái định cư phục vụ dân sinh. 19 công trình đề nghị tạm dừng triển khai trong năm 2011 có tổng mức 163 tỷ đồng, đã bố trí gần 52,9 tỷ đồng, các công trình này chủ yếu là xây dựng trụ sở làm việc.
UBND tỉnh đã phê duyệt 26 chương trình, dự án phi chính phủ với tổng giá trị viện trợ 56,7 tỷ đồng, trong đó giá trị cam kết trong quí I/2011 là 21,5 tỷ đồng. Cấp giấy phép đăng ký đầu tư cho 02 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 145,7 triệu USD.
Khu Kinh tế mở Chu Lai đã ban hành kế hoạch xúc tiến đầu tư năm 2011, đã cấp phép đầu tư nhà máy kính nổi 2 với tổng vốn đầu tư 864 tỷ đồng. Tham mưu xây dựng cơ chế ưu đãi đầu tư các dự án vùng Đông thuộc dự án tổng thể sắp xếp dân cư ven biển, cơ chế đặc thù trung tâm cơ khí đa dụng và ô tô, cơ chế hỗ trợ xây dựng nhà ở công nhân trên đại bàn Khu Kinh tế mở.
Trong quí I/2011, đã thẩm tra 84 dự án, công trình thuộc khối tỉnh quản lý với tổng gía trị quyết toán sau khi thẩm tra 269 tỷ đồng, giảm 5 tỷ đồng so với chủ đầu tư đề nghị.
Tổng vốn đầu tư trên địa bàn quí I/2011 thực hiện khoảng hơn 2.490 tỷ đồng, chiếm hơn 18% kế hoạch, tăng gần 15,5% so với cùng kỳ. Trong đó nguồn vốn nhà nước hơn 1.400 tỷ đồng, tăng 11,4%; nguồn vốn ngoài nhà nước hơn 950 tỷ đồng, tăng 25,7%; nguồn vốn FDI trên 120 tỷ đồng, giảm gần 5%. Khối lượng thực hiện chủ yếu ở các công trình chuyển tiếp như Bệnh viện đa khoa Trung ương, khu hậu cần và nạo vét luồng vào cảng Tam Hiệp; trường Cao đẳng Y tế, các công trình ký túc xá sinh viên. Khởi công xây dựng nhà máy nước Tam Hiệp với công suất 15.000 m3/ngày đêm. Hoàn thành nhà máy thủy điện Sông Tranh 2 có công suất 190 MW với tổng vốn đầu tư trên 4.000 tỷ đồng.
4. Về một số hoạt động xã hội:
Nhiều hoạt động văn hóa diễn ra trong quí I/2011 nhân sự kiện và các ngày lễ lớn như: Tết cổ truyền Tân Mão năm 2011; 81 năm thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam; 36 năm giải phóng quê hương Quảng Nam; các hoạt động chuẩn bị về bầu cử Quốc hội khóa XIII và HĐND các cấp...
Thực hiện Nghị Quyết 11 của Chính phủ, để đảm bảo thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, trong điều kiện giá cả biến động, UBND tỉnh đã chỉ đạo tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra chống việc lợi dụng biến động thị trường để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ, nhất là các nhóm hàng thiết yếu như lương thực, vật liệu xây dựng, phân bón, đồng thời xây dựng kế hoạch dự trữ nguồn hàng hóa thiết yếu phụ vụ nhân dân. Tiếp tục phấn đấu xây dựng gần 7.000 nhà ở theo quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ để hoàn thành chương trình hỗ trợ xây hơn 14.500 nhà ở cho người nghèo. Thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định chế độ, chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội;
Đã phân bổ 2.000 tấn gạo hỗ trợ hơn 90.000 hộ nghèo trong dịp tết Nguyên Đán và kỳ giáp hạt đầu năm 2011; tặng quà cho hơn 111.000 đối tượng, trợ cấp thăm hỏi các đối tượng chính sách người có công với tổng kinh phí khoảng 45 tỷ đồng. Hỗ trợ 18 tỷ đồng cho hộ nghèo với mức hỗ trợ 200.000/hộ. Hỗ trợ 30 kg gạo/hộ cho 3.288 hộ ngư dân nghèo thuộc các xã bãi ngang ven biển.
Theo kết quả điều tra, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (2010-2015), toàn tỉnh có 90.088 hộ trong tổng số 372.173 hộ, chiếm tỷ lệ 24,7%. Hộ cận nghèo có 52.066 hộ, chiến tỷ lệ 13,97%.
Đã giải quyết việc làm cho 9.250 lao động, chiếm trên 24% kế hoạch năm, trong đó xuất khẩu 100 lao động đi Hàn Quốc và Nhật Bản. Có 92 lao động đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo đúng qui định.
Từ nguồn quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, đến nay toàn tỉnh đã mua trên 285.700 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, với số tiền hơn 112 tỷ đồng (mỗi thẻ 394.000 đồng).
Năm học 2010-2011, toàn tỉnh có 754 trường, 10.958 lớp học, 328.482 học sinh. So với năm học trước giảm 69 lớp và hơn 7.000 học sinh. Đã có 269 trường được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia, tăng 67 trường so với năm học trước, trong đó có 44 trường mầm non, 135 trường tiểu học và 80 trường trung học cơ sở.
Công tác phòng chống dịch bệnh được tăng cường kiểm tra và giám sát phòng ngừa, theo Trung tâm y tế dự phòng, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện 03 trường hợp dương tính với cúm A/H1N1, trong đó có 01 trường hợp đã tử vong.
Đến hết tháng 2/2011, trên địa bàn đã xẩy ra 84 vụ tai nạn giao thông, làm chết 49 người, bị thương 82 người, so với cùng kỳ, giảm 26 vụ tai nạn, giảm 14 người chết và giảm 47 người bị thương.